Skip to main content

Posts

Showing posts from August, 2025

Huyện Mèo Vạc (Hà Giang): Khai mạc lớp bồi dưỡng kiến thức dân tộc

  Từ ngày 12 - 29/6, UBND huyện Mèo Vạc (Hà Giang) phối hợp với Trung tâm Bồi dưỡng kiến thức dân tộc của Học viện Dân tộc(thuộc Ủy ban Dân tộc) tổ chức Khai mạc lớp bồi dưỡng kiến thức dân tộc, tiếng DTTS cho cán bộ, công chức xã, thị trấn, Bí thư Chi bộ, Trưởng thôn của 199 thôn, bản, tổ dân phố trên địa bàn huyện. Quang cảnh lớp bồi dưỡng kiến thức dân tộc Đây là chương trình nhằm thực hiện Tiểu dự án 2, Dự án 5 Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 (gọi tắt là Chương trình MTQG 1719). Chương trình bồi dưỡng được chia làm 6 lớp, với 520 học viên tham gia. Đối tượng bồi dưỡng là cán bộ, công chức xã, thị trấn, Bí thư Chi bộ, Trưởng thôn của 199 thôn, bản, tổ dân phố trên địa bàn huyện. Tại các lớp bồi dưỡng, học viên được tìm hiểu chuyên đề: Tổng quan về các DTTS ở Việt Nam; quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về dân tộc và công tác dân vận; pháp luật và chính sách của Nhà nước về phát triển kinh...

Ban Dân tộc Đắk Lắk tổ chức Hội nghị tập huấn pháp luật về hôn nhân, dân số và gia đình

  Trong 2 ngày 27, 28/7, Ban Dân tộc tỉnh Đắk Lắk tổ chức Hội nghị tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật và kỹ năng truyền thông, vận động, tư vấn pháp luật liên quan về hôn nhân, dân số và gia đình cho cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác dân tộc; đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật tại các địa phương thực hiện Tiểu dự án 2 Dự án 9 Chương trình MTQG 1719 trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Học viên tham gia hội nghị tập huấn Tham gia lớp tập huấn có 260 học viên đến từ các địa phương thực hiện Tiểu dự án 2 Dự án 9 Chương trình MTQG 1719 thuộc 15 huyện, thị, thành phố. Hội nghị tập huấn là một trong những hoạt động thực hiện Kế hoạch số 220/KH-UBND ngày 17/11/2022 của UBND tỉnh về thực hiện Tiểu dự án 2 Dự án 9: Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng đồng bào DTTS và miền núi thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I: Từ năm 2021 - 2025 (gọi tắt là Chư...

Ban Dân tộc tỉnh Bắc Giang tổ chức 12 hội nghị tuyên truyền về giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống

  Vừa qua, Ban Dân tộc tỉnh Bắc Giang đã tổ chức 12 hội nghị tuyên truyền về giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống tại các thôn trên địa bàn xã Thanh Hải, huyện Lục Ngạn. Báo cáo viên truyền đạt nội dung đến các học viên. Tham dự Hội nghị có 600 đại biểu là Bí thư chi bộ, Trưởng thôn, các ban, đoàn thể thôn, đại diện các hộ dân thuộc các thôn trong xã Thanh Hải. Đây là một trong những nội dung trọng tâm của Tiểu Dự án 2, Dự án 9, Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế -  xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 - 2030; giai đoạn I: Từ năm 2021 đến năm 2025 (gọi tắt là Chương trình MTQG 1719). Quang cảnh Hội nghị. Tại Hội nghị, các đại biểu được báo cáo viên của Sở Tư pháp, Ban Dân tộc tỉnh Bắc Giang truyền đạt các thông tin về Luật Hôn nhân gia đình; quy định của pháp luật liên quan đến hôn nhân, gia đình, phòng chống tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống. Theo Ban Tổ chức, các Hội nghị tuyên truyền về giảm thiểu tình trạng tảo hôn v...

Đồng bào Khmer rộn ràng chuẩn bị đón Tết Chôl Chnăm Thmây năm 2024

  Tết Chôl Chnăm Thmây của đồng bào Khmer năm 2024, sẽ diễn ra từ ngày 13 đến ngày 16 tháng 4 năm 2024. Thời điểm này, còn gần 1 tháng nữa mới đến Tết, nhưng tại các phum sóc vùng đồng bào Khmer ở các tỉnh miền Tây Nam bộ, không khí Tết cổ truyền đang hiện diện trên từng nếp nhà, sóc ấp. Chùa Monivongsa Bopharam (phường 1, TP Cà Mau, tỉnh Cà Mau) là nơi diễn ra nhiều nghi thức, hoạt động phong phú của đồng bào Khmer trong dịp Tết Chôl Chnăm Thmây. Vào giữa tháng 4 dương lịch hàng năm, đồng bào Khmer trên địa bàn tỉnh Cà Mau lại tất bật chuẩn bị đón Tết cổ truyền của dân tộc mình. Cũng như Tết Nguyên đán, Tết Chôl Chnăm Thmây của đồng bào Khmer, có ý nghĩa mừng năm mới theo lịch cổ truyền của đồng bào, là Tết chịu tuổi. Đây là dịp để giáo dục con cháu về lòng hiếu thảo với tổ tiên, ông bà, cha mẹ; các thành viên trong gia đình cùng tề tựu, sum họp sau những ngày tháng làm việc, lao động vất vả và động viên nhau tiếp tục cố gắng để ngày càng phát triển hơn. Theo tiếng Khmer...

Hơn 14 nghìn tỷ đồng đầu tư, phát triển vùng dân tộc và miền núi

  Ngày 4-1, tại Hà Nội, Ủy ban Dân tộc tổ chức Hội nghị tổng kết Chương trình phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) các xã đặc biệt khó khăn (ÐBKK) vùng dân tộc và miền núi giai đoạn 2006-2010 (CT135-II), các chính sách dân tộc giai đoạn 2006- 2010; tổng kết công tác dân tộc năm 2010 và triển khai nhiệm vụ năm 2011. Ðến dự và chỉ đạo hội nghị có đồng chí Nguyễn Sinh Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ; các đồng chí Ủy viên T.Ư Ðảng: Giàng Seo Phử, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc; Ksor Phước, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của QH; Nguyễn Thị Kim Ngân, Bộ trưởng LÐ-TB và XH; đại diện nhiều tổ chức quốc tế và lãnh đạo nhiều bộ, ban, ngành, địa phương trong cả nước. Báo cáo tổng kết do lãnh đạo Ủy ban Dân tộc trình bày, nêu rõ: Sau 5 năm triển khai thực hiện, CT 135 - II trên địa bàn 1.958 xã, 3.274 thôn, bản ÐBKK của 369 huyện thuộc 50 tỉnh, đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần phát triển KT-XH các xã, thôn, bản ÐBKK vùng đồng bào dân tộc và miề...

Hội thảo Phát triển kinh tế-xã hội dân tộc Chứt

  Từ 13-14/10, Đoàn công tác của Ủy ban Dân tộc (UBDT) do Phó Chủ nhiệm Hoàng Xuân Lương làm Trưởng đoàn đã chủ trì Hội thảo “Phát triển kinh tế-xã hội dân tộc Chứt” tại Quảng Bình. Thực hiện Nghị quyết 22 của Chính phủ, UBDT được trao trách nhiệm phối hợp cùng với các Bộ, ngành và các địa phương triển khai khảo sát, đánh giá để xây dựng Đề án “Bảo tồn và phát triển kinh tế-xã hội các dân tộc thiểu số có số dân dưới 10.000 người”. Theo đó, dân tộc Chứt cư trú ở tỉnh Quảng Bình thuộc đối tượng được khảo sát, đánh giá để đưa vào Đề án. Tính đến cuối năm 2009, Quảng Bình có 883.728 khẩu, trong đó vùng dân tộc miền núi chiếm 30% dân số của tỉnh. Dân tộc Chứt (gồm Sách, Rục, Mày, A rem, Mã Liềng) là một trong 2 dân tộc ít người có số dân đông nhất của tỉnh (cùng với dân tộc Bru-Vân Kiều) với 1.337 hộ, 5.923 khẩu. Các nhóm dân tộc Chứt cư trú trong 20 bản tập trung, 53 bản xen ghép thuộc 21 xã miền núi, vùng cao của 3 huyện Minh Hóa, Tuyên Hóa và Bố Trạch. Nhiều năm qua, vùng đồng bào dâ...

NGƯỜI XINH MUN

  Tên tự gọi : Xinh Mun Tên gọi khác : Puộc, Xá, Pnạ Nhóm địa phương : Xinh, Mun Dạ, Xinh Mun Nghẹt. Dân số : 29.503 người (Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số 01/4/ 2019). Ngôn ngữ : Thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á). Người Xinh Mun giỏi tiếng Thái. Lịch sử : Người Xinh Mun đã từng sinh sống lâu đời ở miền Tây Bắc Việt Nam. Hoạt động sản xuất : Họ chuyên trồng lúa trên nương, một số ít làm ruộng. Ăn : Người Xinh Mun ăn cơm nếp, cơm tẻ, thích gia vị cay, uống rượu cần, có tập quán ăn trầu, nhuộm răng đen. Mặc :   Y phục của họ giống người Thái. Ở : Họ ở nhà sang. Nhà có mái vòm hình mai rùa. Bộ nữ phục Xinh Mun tuy đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của y phục Thái, nhưng vẫn giữ cách vấn khăn riêng của mình. Cũng giống như nhiều dân tộc khác nói ngôn ngữ Môn - Khơ Me và cũng như người Thái đen, người Xinh Mun thường kiến tạo mái hồi nhà theo kiểu hình khum tròn hình mai rùa. Phương tiện vận chuyển : Phổ biến dùng gùi đeo trên trán. Quan hệ xã hội : G...

NGƯỜI TÀ ÔI

  Tên gọi khác:   Tà Ôi, Pa Cô, Tà Uốt, KanTua, Pa Hy... Nhóm địa phương:  Tà Ôi, Pa Cô, Pa Hy. Dân số:  52.356 người (Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số 01/4/ 2019). Ngôn ngữ:  Thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á), Ít nhiều gần gũi với tiếng Cơ Tu và Bru - Vân Kiều. Giữa các nhóm có một số khác biệt nhỏ về từ vựng. Lịch sử:  Người Tà Ôi thuộc lớp dân cư tụ lâu đời ở Trường Sơn. Hoạt động kinh tế:  Làm rẫy, trồng lúa rẫy là nguồn sống chính của người Tà Ôi. Cách thức canh tác tương tự như ở các tộc Cơ Tu, Bru - Vân Kiều. Ruộng nước đã phát triển ở nhiều nơi. Người Tà Ôi một số nơi giỏi nghề dệt vải sợi bông, hoa văn được tạo bằng sợi màu vàng và bằng cườm trắng. Loại vải có hoa văn cườm được ưa thích. Mỗi khi đi chơi xa hay đi dự lễ hội, phụ nữ Tà Ôi mặc đẹp, đủ cả váy, áo, thắt lưng và cũng thường đeo theo chiếc gùi sau lưng. Nhà sàn dài có mái uốn tròn ở đầu hồi là hình thức cư trú truyền thống của người Tà Ôi. Nay vẫn thấ...

NGƯỜI RƠ MĂM

  Dân số: 639  người (Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số 01/4/ 2019). Ngôn ngữ:  tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á), chịu ảnh hưởng nhiều yếu tố ngôn ngữ của dân tộc Khơ Me và gần gũi với tiếng nói của một số nhóm trong dân tộc Xơ Ðăng. Người Rơ Măm hiện sử dụng thành thạo tiếng nói của nhiều dân tộc, trong đó có tiếng phổ thông. Lịch sử:  Những người già làng cho biết họ là cư dân đã sinh sống ở khu vực này từ xa xưa. Ðầu thế kỷ XX dân số của tộc này còn khá đông, phân bố trong 12 làng, ở lẫn với người Gia Lai. Hiện họ chỉ sống tập trung trong một làng. Cho dù những ngôi nhà kiểu cũ không còn nữa, nhưng hàng năm các cột nêu ngày lễ đâm trâu, cái nọ tiếp cái kia vẫn đang và sẽ còn mọc lên với hàng cột vượt lên trên chiều cao của mái nhà, những hàng cây. Ðó là sự kết hợp hài hoà giữa truyền thống và hiện đại ở làng Le của người Rơ Măm hôm nay. Hoạt động sản xuất:  Người Rơ Măm sống bằng nghề làm rẫy, trồng lúa nếp là chính,...

NGƯỜI PÀ THẺN

  Tên tự gọi : Pà Hưng. Tên gọi khác : Mèo Lài, Mèo Hoa, Mèo Ðỏ, Bát tiên tộc... Dân số:  8.248 người (Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số 01/4/ 2019). Ngôn ngữ : Thuộc ngữ hệ Hmông-Dao. Lịch sử : Theo truyền thuyết, người Pà Thẻn ở vùng Than Lô (Trung Quốc) đến Việt Nam cách đây khoảng 200-300 năm với câu chuyện vượt biển cùng người Dao. Cất giữ giống là một việc rất trọng yếu của nông dân, dù làm ruộng hay làm nương. Người Pà Thẻn giữ giống bằng cách treo các loại hạt giống cây trong nhà. Hoạt động sản xuất : Trước kia người Pà Thẻn sống chủ yếu bằng nương rẫy. Phương thức canh tác là phát đốt rồi chọc lỗ, tra hạt. Cây trồng gồm lúa, ngô và các loại rau, đậu, khoai sọ, khoai môn. Công cụ sản xuất là rìu, cuốc, dao. Do sản xuất phụ thuộc vào thiên nhiên, nhất là những lúc mất mùa, giáp hạt, người Pà Thẻn vẫn phải lên rừng đào củ mài, củ nâu... Vì thế hái lượm còn đóng vai trò đáng kể trong đời sống kinh tế. Nghề dệt của họ có từ lâu đời, sản phẩm dệt được...

NGƯỜI MƯỜNG

  Tên tự gọi : Mol (hoặc Mon, Moan, Mual). Nhóm địa phương : Ao Tá (Âu Tá), Mọi Bi. Dân số : 1.452.095 người (Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số 01/4/ 2019). Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường (ngữ hệ Nam Á). Lịch sử:  Cùng nguồn gốc với người Việt cư trú lâu đời ở vùng Hoà Bình, Thanh Hoá, Phú Thọ... Hoạt động sản xuất:  Nông nghiệp ruộng nước chiếm vị trí hàng đầu, cây lúa là cây lương thực chính. Công cụ làm đất phổ biến là chiếc cày chìa vôi và chiếc bừa đơn, nhỏ có răng bằng gỗ hoặc tre. Lúa chín dùng hái gặt bó thành cum gùi về nhà phơi khô xếp để trên gác, khi cần dùng, lấy từng cum bỏ vào máng gỗ, dùng chân chà lấy hạt rồi đem giã. Trong canh tác ruộng nước, người Mường có nhiều kinh nghiệm làm thuỷ lợi nhỏ. Bộ Y phục của phụ nữ Mường thanh lịch và kín đáo gồm: khăn trắng hình chữ nhật, áo ngắn váy dài đến mắt cá chân, yếm; đồ trang sức thường là dây đeo bằng bạc có gắn hộp trầu hình quả đào, móng vuốt hổi, gấu... Ngoài ruộ...

NGƯỜI MẠ

  Tên tự gọi : Mạ. Tên gọi khác:  Châu Mạ, Chô Mạ, Chê Mạ. Nhóm địa phương : Mạ Ngăn, Mạ Xốp, Mạ Tô, Mạ Krung. Dân số : 50.322 người (Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số 01/4/ 2019). Lịch sử : Người Mạ là cư dân sinh tụ lâu đời ở Tây Nguyên. Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á). Hoạt động sản xuất : Nương rẫy đóng vai trò chủ yếu trong đời sống của người Mạ. Ðây là loại rẫy đa canh, ngoài trồng lúa còn trồng các loại cây khác như bắp, bầu, bí, thuốc lá, bông vải, ở vùng sông Ðồng Nai, người Mạ làm ruộng bằng kỹ thuật lùa cả đàn trâu xuống ruộng quần đất đến khi nhão bùn thì gieo lúa giống. Họ tính năng suất của rẫy theo số gùi lúa thu được khi trỉa một gùi lúa giống. Công cụ làm rẫy chủ yếu là rìu, xà gạc, dao, liềm, gậy chọc lỗ, gùi. Nghề đánh cá khá phổ biến. Trước đây, họ biết chế thuốc độc từ loại lá rừng bỏ xuống suối để bắt cá. Người Mạ nổi tiếng về nghề trồng bông dệt vải. Phụ nữ Mạ chuẩn bị con sợi để dệt vải. Ăn : C...