Skip to main content

NGƯỜI KHƠ MÚ

 Tên tự gọi: Kmụ, Kưm Mụ.

Tên gọi khác: Xá Cẩu, Khạ Klẩu, Mãng Cẩu, Tày Hạy, Mứn Xen, Pu Thềnh, Tềnh.
Dân số: 90.612 người (Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số 01/4/2019).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á).

Lịch sử: Khơ Mú là một trong những cư dân đã cư trú lâu đời nhất ở miền Tây Bắc Việt Nam. Bộ phận Khơ Mú cư trú tại miền núi các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An do chuyển cư từ Lào sang.

Quen ăn nước mạch trong các khe núi. Không có thói quen đưa nước lần về tận nhà. Hàng ngày, phụ nữ và trẻ em hứng nước mạch vào các ống bương, gánh về nhà.

Hoạt động sản xuất: Là cư dân sinh sống chủ yếu bằng canh tác nương rẫy nên được gọi là "Xá ăn lửa". Ngoài hình thái du canh du cư là chủ yếu, bộ phận định cư thường canh tác nương theo chu trình vòng tròn khép kín. Cây trồng ngoài lúa ngô ra còn có bầu bí, đỗ và các loại cây có củ. Công cụ sản xuất gồm rìu, dao, cuốc, trong đó đáng lưu ý nhất là chiếc gậy chọc lỗ. Hoặc gậy đơn hoặc gậy kép (bịt sắt) có thể dùng nhiều năm. Hái lượm và săn bắn vẫn có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế. Nghề phụ gia đình chủ yếu là đan lát đồ gia dụng. Một số nơi biết thêm nghề rèn, mộc, dệt vải. Việc trao đổi, mua bán chủ yếu là hình thức hàng đổi hàng. Vỏ ốc "kxoong" trước kia được coi như vật ngang giá. Người Khơ Mú chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà phục vụ sức kéo và nhu cầu tiêu dùng, tín ngưỡng.

Ăn: Người Khơ Mú thường đồ xôi hay đồ ngô, độn sắn. Họ thích ăn những món có vị cay, chua, đắng, các thức ăn nướng có mùi như chẻo, nậm pịa, cá chua...

Mặc: Người Khơ Mú mặc giống người Thái, nhưng có điều khác là cách trang trí những hàng tiền bạc và vỏ ốc ở phía thân áo của phụ nữ. Ngày nay, phần lớn người Khơ Mú, nhất là nam giới đều ăn mặc theo người Việt.

: Hiện nay họ cư trú tại các tỉnh: Yên Bái, Sơn La, Lai Châu. Vì điều kiện du canh, du cư nên bản làng thường nhỏ bé, rải rác. Nhà sàn chủ yếu dùng cột không ngoãm, vách phên, sàn bương. Hiện nay nhiều nơi đã làm nhà khang trang, vững chãi hơn.

Phương tiện vận chuyển: Cơ bản là gùi có dây đeo trên trán, có ách và các loại túi đeo, bộ phận người Khơ Mú làm ruộng dùng thêm sọt gánh.

Chiếc tiêu ba lỗ nối với bầu cộng âm làm từ một dốt nứa to hơn ống thổi.

Quan hệ xã hội: Người Khơ Mú quan hệ chặt chẽ giữa những người đồng tộc và những người láng giềng, nhất là người Thái.

Mỗi bản gồm nhiều gia đình thuộc các dòng họ khác nhau. Mỗi họ có trưởng họ. Người dân bản trong bản đã có phân hoá giàu nghèo. Những dòng họ người Khơ Mú đều mang tên thú, chim, cây cỏ... có thể chia làm 3 nhóm tên họ. Nhóm tên thú gồm hổ, chồn, cầy hương... Nhóm tên chim gồm phượng hoàng đất, chìa vôi, cuốc, bìm bịp... Nhóm tên cây gồm guột, rau đớn, dương xỉ, tỏi ... Ngoài ra còn một số họ mang tên vật vô tri như: rọ lợn, môi múc canh...

Cưới xin: Hôn nhân theo nguyên tắc thuận chiếu, đặc biệt trong phạm vi một dòng họ. Trong hôn nhân, nhiều tàn dư mẫu hệ còn tồn tại như tục ở rể, chồng mang họ vợ, hôn nhân anh em vợ, chị em chồng... Ðám cưới được tiến hành qua các khâu dạm hỏi, ở rể, lễ cưới ở bên nhà vợ và lễ đón dâu... Trai gái được tự do tìm hiểu nhưng quyền quyết định do bố mẹ, đặc biệt là ông cậu. Ông cậu là người có ý kiến quyết định tiền thách cưới, đồ sính lễ.

Ma chay: Ðám ma của người Khơ Mú gồm nhiều nghi thức tín ngưỡng. Ðặc biệt bài cúng tiễn hồn người chết kéo dài hàng giờ sau đó mới đem thi hài đi chôn.

Nhà mới: Lên nhà mới là dịp vui của gia đình và cả bản. Chủ nhà thường mổ lợn thiết đãi bà con xóm giềng. Ðây là dịp dân bản trình diễn các sinh hoạt văn nghệ có tính cộng đồng.

Lễ tết: Ngoài tết Nguyên đán ra, người Khơ Mú còn ăn tết cơm mới. Tết được tổ chức sau vụ gặt tháng 10 âm lịch. Ðây là dịp vui của cả bản sau một thời gian lao động mệt nhọc. Tết cơm mới của người Khơ Mú thể hiện hiện sắc thái văn hoá tộc người đậm nét. Họ còn duy trì nhiều nghi lễ liên quan đến nông nghiệp, trồng trọt.

Ðàn "dao" (hun mạy) được làm bằng một loại nứa tép hoặc tre,
do phụ nữ chế tác và biểu diễn.

Thờ cúng: Người Khơ Mú quan niệm có 5 loại ma quan trọng nhất là: ma trời, ma đất, ma thuồng luồng, ma tổ tiên và ma nhà. Ðó là các loại ma mang điều lành cho con người nhưng đôi khi giận dữ có thể gây tai hoạ trừng phạt con người.

Ngoài lễ cúng mường, người Khơ Mú còn lễ cúng bản, đặc biệt là lễ cúng ma nhà trong các dịp tết và khi con cháu trong nhà đau ốm. Bàn thờ ma nhà đặt trên gác bếp, còn ông bà thờ ở một gian riêng kín đáo và rất kiêng kỵ đối với người ngoài. Mỗi dòng họ vẫn duy trì tục thờ ma dòng họ với nghi thức và các động tác mang tính đặc trưng riêng.

Lịch: Ngoài theo lịch Thái, người Khơ Mú phổ biến cách tính ngày giờ căn cứ theo bảng cà la để vận dụng trong việc dựng nhà, cưới gả...

Học: Nhiều người biết đọc, viết chữ Thái.

Văn nghệ: Làn điệu dân ca quen thuộc nhiều người ưa thích là Tơm. Làn điệu này mang đậm tính sử thi, trữ tình. Cách hát theo kiểu đối đáp. Người Khơ Mú thích xoè, múa, thổi các loại sáo, các bộ gõ bằng tre, nứa tự tạo, đặc biệt là thổi kèn môi.

Chơi: Trong các ngày lễ tết, trẻ em hay đánh cầu lông làm bằng lông gà, đánh quay và các trò chơi dân gian khác.

(Bức tranh Văn hóa các Dân tộc Việt Nam - NXB Giáo dục)

Comments

Popular posts from this blog

Huyện Mèo Vạc (Hà Giang): Khai mạc lớp bồi dưỡng kiến thức dân tộc

  Từ ngày 12 - 29/6, UBND huyện Mèo Vạc (Hà Giang) phối hợp với Trung tâm Bồi dưỡng kiến thức dân tộc của Học viện Dân tộc(thuộc Ủy ban Dân tộc) tổ chức Khai mạc lớp bồi dưỡng kiến thức dân tộc, tiếng DTTS cho cán bộ, công chức xã, thị trấn, Bí thư Chi bộ, Trưởng thôn của 199 thôn, bản, tổ dân phố trên địa bàn huyện. Quang cảnh lớp bồi dưỡng kiến thức dân tộc Đây là chương trình nhằm thực hiện Tiểu dự án 2, Dự án 5 Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 (gọi tắt là Chương trình MTQG 1719). Chương trình bồi dưỡng được chia làm 6 lớp, với 520 học viên tham gia. Đối tượng bồi dưỡng là cán bộ, công chức xã, thị trấn, Bí thư Chi bộ, Trưởng thôn của 199 thôn, bản, tổ dân phố trên địa bàn huyện. Tại các lớp bồi dưỡng, học viên được tìm hiểu chuyên đề: Tổng quan về các DTTS ở Việt Nam; quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về dân tộc và công tác dân vận; pháp luật và chính sách của Nhà nước về phát triển kinh...

Ban Dân tộc Đắk Lắk tổ chức Hội nghị tập huấn pháp luật về hôn nhân, dân số và gia đình

  Trong 2 ngày 27, 28/7, Ban Dân tộc tỉnh Đắk Lắk tổ chức Hội nghị tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật và kỹ năng truyền thông, vận động, tư vấn pháp luật liên quan về hôn nhân, dân số và gia đình cho cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác dân tộc; đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật tại các địa phương thực hiện Tiểu dự án 2 Dự án 9 Chương trình MTQG 1719 trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Học viên tham gia hội nghị tập huấn Tham gia lớp tập huấn có 260 học viên đến từ các địa phương thực hiện Tiểu dự án 2 Dự án 9 Chương trình MTQG 1719 thuộc 15 huyện, thị, thành phố. Hội nghị tập huấn là một trong những hoạt động thực hiện Kế hoạch số 220/KH-UBND ngày 17/11/2022 của UBND tỉnh về thực hiện Tiểu dự án 2 Dự án 9: Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng đồng bào DTTS và miền núi thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I: Từ năm 2021 - 2025 (gọi tắt là Chư...

Đồng bào Khmer rộn ràng chuẩn bị đón Tết Chôl Chnăm Thmây năm 2024

  Tết Chôl Chnăm Thmây của đồng bào Khmer năm 2024, sẽ diễn ra từ ngày 13 đến ngày 16 tháng 4 năm 2024. Thời điểm này, còn gần 1 tháng nữa mới đến Tết, nhưng tại các phum sóc vùng đồng bào Khmer ở các tỉnh miền Tây Nam bộ, không khí Tết cổ truyền đang hiện diện trên từng nếp nhà, sóc ấp. Chùa Monivongsa Bopharam (phường 1, TP Cà Mau, tỉnh Cà Mau) là nơi diễn ra nhiều nghi thức, hoạt động phong phú của đồng bào Khmer trong dịp Tết Chôl Chnăm Thmây. Vào giữa tháng 4 dương lịch hàng năm, đồng bào Khmer trên địa bàn tỉnh Cà Mau lại tất bật chuẩn bị đón Tết cổ truyền của dân tộc mình. Cũng như Tết Nguyên đán, Tết Chôl Chnăm Thmây của đồng bào Khmer, có ý nghĩa mừng năm mới theo lịch cổ truyền của đồng bào, là Tết chịu tuổi. Đây là dịp để giáo dục con cháu về lòng hiếu thảo với tổ tiên, ông bà, cha mẹ; các thành viên trong gia đình cùng tề tựu, sum họp sau những ngày tháng làm việc, lao động vất vả và động viên nhau tiếp tục cố gắng để ngày càng phát triển hơn. Theo tiếng Khmer...